Lào Cai 25° - 27°
Lễ hội Lồng Tồng - Một giá trị văn hóa giàu bản sắc
"Áo em thêu chỉ biếc hồng Mùa xuân ngày hội Lồng Tồng thêm vui” (Tố Hữu) Lễ hội Lồng tồng cũng thường gọi là Hội xuống đồng, là một lễ hội của đồng bào vùng núi phía Bắc, được xem là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Nơi tổ chức tại những ruộng tốt nhất, to nhất. Vẫ chưa có tài liệu nào nghiên cứu, khẳng định lễ hội này có từ bao giờ. Nhưng chắc chắn rằng, khởi nguồn của lễ hội phải được sinh ra từ xã hội của đồng bào vùng núi phía Bắc khi đã sống thành làng bản quần cư trong cộng đồng.

Ngày xuân ở vùng cao, trong cái se lạnh của tiết trời, trong cái mơn man lộc biếc thắm sắc đào phai còn có những bông mận trắng nở bung như mây bên sườn núi. Hòa cùng sắc xuân ấy là không khí háo hức của những cư dân bản địa nô nức trẩy hội xuân. Đẹp là vậy, nhưng cái tết của đồng bào miền núi phía bắc sẽ mất vui nếu thiếu đi Hội Lồng tồng.

Và lễ hội Lồng tồng - lễ hội quan trọng bậc nhất vào dịp đầu năm mới, gắn liền với nền nông nghiệp trồng trọt, được tổ chức nhằm gửi gắm những mong ước của con người, cầu cho mưa thuận gió hòa, cây lúa dưới ruộng, củ sắn trên nương luôn luôn tốt tươi, mang lại thật nhiều no ấm, là một biểu hiện sinh động của nền văn hóa phong phú, đa dạng và giàu bản sắc.

Lễ hội Lồng Tồng - nét sinh hoạt văn hoá đặc sắc

Từ xa xưa, đồng bào miền núi phía Bắc, nhất là đồng bào Tày - Nùng, đã sinh sống gắn bó với tự nhiên, thân thiết với bản làng, núi đồi, ruộng đồng, nương rẫy. Cho đến ngày nay, nhiều tập quán và phong tục, nhiều ứng xử với thế giới chung quanh vẫn còn mang đậm nét truyền thống xưa kia. Lễ hội Lồng tồng đã có từ rất lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng người dân tộc Tày, Nùng ở các tỉnh miền núi phía Bắc – Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và một số tỉnh Tây Bắc.

Lễ hội Lồng tồng cũng như lễ xuống đồng của người Kinh đều mang đậm dấu vết tín ngưỡng phồn thực và thành phần lễ hội sinh động: Chủ lễ vạch một đường cày đầu năm, bắt đầu cho cuộc sống nông tang, cày bừa, cấy, hái. Chọn ngày lành để thực hiện nhằm cầu mưa thuận, gió hoà, dân khang, vật thịnh. Sau nghi thức dâng hương kính cáo các vị thần, dân làng cử ra một người mắc ách vào con trâu mộng vạch một luống cày đầu năm mở đầu cho cuộc sống nhà nông.

Tại Lễ hội, mỗi sản vật được dâng lên cúng trời đất, Thần Nông đều mang một ý nghĩa thể hiện được sự giao hoà của trời đất, là thành quả lao động của những bàn tay cần cù, chịu khó, chắt chiu làm lụng, thể hiện sự cảm tạ trời đất, các vị tiền nhân, thánh thần luôn phù hộ, che chở cho nhân dân được thuận lợi và bội thu trong sản xuất, an khang trong đời sống. 

Bên cạnh phần lễ, phần hội của lễ hội Xuống đồng đã thực sự tạo nên sự rộn ràng, náo nức, đông vui. Đó là các làn điệu dân ca, dân vũ, trò chơi, trò diễn,  thể hiện được đậm chất dân gian truyền thống nhưng vẫn toát lên sự khỏe khoắn, hiện đại.

Đã thành tập tục, sau những ngày vui xuân chấm dứt, một mùa đồng áng lại bắt đầu, các bản người Tày lại nhộn nhịp chuẩn bị lễ hội Lồng tồng. Từ vài ngày trước hội, các cụ cao niên trong xã đã tổ chức họp bàn, phân công công việc chuẩn bị cho ngày hội. Cánh trai trẻ thì chuẩn bị trang phục, giầy dép, các thiếu nữ thì ríu rít rủ nhau ngồi khâu còn, đan yến (để đá cầu) và làm bánh trái phục vụ lễ hội…

Thời gian tổ chức

Hầu hết các hội Lồng tồng lớn nhất đều được tổ chức vào ngày 4 - 10 tháng giêng, như Lồng tồng huyện Định Hóa (tỉnh Thái Nguyên), huyện Yên Sơn, Chiêm Hóa, Nà Hang (tỉnh Tuyên Quang), huyện Ba Bể (Bác Kạn)

Tùy theo sự xắp xếp mỗi địa phương, trong các bản làng, ấn định cho phù hợp với địa hình. Các địa phương gần nhau thì có thể thỏa thuận chọn ngày khác nhau để có điều kiện giao lưu, trao đổi.

Nghi thức tổ chức lễ hội

Dù được tổ chức ở bất cứ nơi nào, quy mô lớn hay nhỏ, phần lễ vẫn giữ nguyên các nghi thức cúng lễ, mở đầu bằng lễ cầu mùa, thầy cúng đọc các bài khấn và thực hiện các nghi thức tạ Thiên Địa, cầu thần Nông, thần Núi, thần Suối và Thành hoàng, những vị thần bảo hộ cho mùa màng và sức khỏe, sự bình yên của dân làng.

Trước ngày hội, các gia đình đều quét dọn nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực để đón khách. Khi gà gáy canh một, đại diện các dòng họ cùng thầy mo làm lễ rước nước từ đầu nguồn về bản để sáng ngày mở hội nước này được rước ra nơi hành lễ.

Giàn cúng được làm bằng tre, nứa hình chữ U, đáy chữ U hướng đông; giàn cúng cao khoảng 1m so với mặt đất, rộng khoảng 40cm. Lễ vật chung của bản đặt ở trên giàn cúng phía đáy chữ U, gồm bát nước, một đĩa xôi đỏ, một đĩa xôi vàng (xôi đỏ biểu trưng của mặt trời, xôi vàng biểu trưng của mặt trăng), con gà luộc, xâu cá nướng, bát tiết luộc, một con dao nhọn, một bó vải mới dệt; hai con cá bằng giấy màu vàng, hai con chim cú bằng giấy màu đỏ, hai chùm hoa bằng bỏng gạo cắm trên bẹ chuối, hai chùm quả của cây dong riềng (cây bồ đao, quả tượng trưng cho hạt gạo). Tiếp theo hai bên lễ vật cúng của thầy mo được đặt lễ vật của dân bản. Cuối dàn cúng đặt lễ của thành viên mới về bản trong năm. Lễ vật chủ yếu là các món ăn (không có bát nước, con dao và đĩa tiết).

Đặc biệt, trên mỗi mâm đều có một chiếc bánh hình bông hoa nhiều mầu sắc. Mỗi mâm cỗ còn có thêm hai đôi quả còn được làm bằng vải mầu, trong nhồi cát, bông, có tua rua nhiều mầu sắc sặc sỡ. Lễ khấn cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt được thực hiện do các thầy tào tiến hành.

Vào ngày hội, tất cả mọi người trong thôn, trong bản đều tham gia làm lễ. Nhà nào cũng có mâm cúng, có gà luộc, có bánh chưng, thịt lợn, trứng luộc nhuộm phẩm màu, xôi đỏ, xôi vàng tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng, cho âm dương, trên mỗi đĩa xôi có một con én màu đỏ làm bằng giấy đậu lên, những mơ ước, những khát vọng về cuộc sống ấm no, sinh sôi nảy nở, an lành đều được gửi gắm tất cả vào trong đó.

Khi mặt trời lên, trống hội giục, các gia đình lần lượt đội mâm cúng ra thửa ruộng lớn nhất trên cánh đồng của bản mường để chuẩn bị cho nghi thức cầu mùa. Mâm cúng được xếp theo hàng, trên cùng là mâm của thầy Mo - người được kính trọng nhất và cũng là người giữ vai trò chủ trì các nghi lễ trong ngày hội.

Một hồi chiêng vang lên, lễ cúng mở hội bắt đầu. Người làm lễ đứng vòng quanh mâm cúng, khi hương thắp, thầy Mo đọc lời khấn và bắt đầu những nghi thức cầu cúng như tạ lễ thần Nông, Thiên địa, Sơn Thần, Thủy thần….và Thần thành hoàng, những vị thần được cho là có sự tác động đến hoạt động sản xuất và đời sống của cư dân trong cộng đồng Tày – Nùng, Dao, cầu cho được mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt sinh sôi nẩy lộc, bản làng yên ấm. Thầy Mo tay cầm nậm nước làm bằng vỏ bầu khô được hứng ở đầu nguồn (do các sơn nữ đẹp nhất của các bản mường mang đến) ngửa mặt lên trời cầu khấn rồi vẩy nước ra khắp bốn phương tượng trưng cho nước thiêng từ mường trời tưới xuống nhân gian cho cây tươi tốt, cho ruộng nương được mùa để tất cả người dân bản mường được hưởng phúc.

Cúng xong, thầy mo tay cầm bát nước tay kia cầm dao lia bốn lần trên bát nước, cắt ngang dọc theo bốn phương tám hướng. Thầy mo ngậm nước phun theo các phương, tay cầm bạc trắng vảy bốn hướng.

Kết thúc bằng bài cúng kỳ yên giải hạn năm cũ và cầu bình an cho năm mới. Nghi thức “Xuống đồng” là phần quan trọng nhất của lễ hội. Tại mảnh ruộng tốt, một lão nông giỏi nhất sẽ đánh trâu cày những đường cày đầu tiên để bắt đầu một vụ mùa mới. Theo phong tục, sau lễ hội này các gia đình mới bắt đầu làm mùa.

Làm lễ xong ở giàn cúng chính, thầy mo đến cúng ở chân cột còn. Cúng xong thầy mo tung cao hai quả còn cho các chàng trai tranh cướp. Ai cướp được quả còn đầu tiên thì người đó được ném còn lên vòng. Người nào ném rách phông giấy thì được thưởng ba vuông vải đỏ, quả còn đó được thầy mo rạch ra lấy các loại hạt bên trong trộn với thúng thóc rang để sẵn trước đó tung lên trên đám đông người dự hội. Mọi người ai cũng muốn hứng lấy phần nhiều.

Các hoạt động của lễ hội

Sau những nghi thức, sau đường cày khai hội là những chiếc còn xinh xắn rực rỡ sắc màu với những tua vải dài lê vút lên không trung hướng đến hồng tâm trên ngọn nêu nơi có hai vòng tròn cao thấp tượng trưng cho Âm - Dương cái gốc của vũ trụ và sinh ra vạn vật. Chiếc còn được rời tay của người chủ hội đã bắt đầu cho cuộc vui. Trai gái xúm lại bên những chiếc còn, đón nhận bằng tình cảm, bằng sự chờ đợi. Ai cũng hy vọng chiếc còn của mình đi qua hồng tâm để Âm - Dương giao hoà mùa màng được tươi tốt. Và bên kia là những đôi mắt, những bàn tay xinh đang chờ đợi chiếc còn trao gửi tình cảm của người mình thương yêu.

Tiếp đó là những bài hát Sli mượt mà, tình cảm với những câu Lượn giao duyên rồi nhiều trò chơi khác như đi cà khoeo, đánh quay, đánh yến đá cầu, đẩy gậy…trai gái có dịp trổ tài với bản mường làm người xem không muốn dứt trong tiếng Lượn nàng ới. Phần thưởng thường là mâm cỗ ngon nhất hội cho những ai thắng cuộc tuy nhiên người chiến thắng lại đem chia cho tất cả mọi người cùng hưởng phúc lộc ngày xuân. Trong ngày xuân tất cả những vật dụng, cây cối vật nuôi trong ngày tết đều được dán một mảnh giấy đỏ lên mình như khoác một tấm áo mới để vui cùng con người sau những ngày lao động vất vả thể hiện tính triết lý và nhân văn sâu sắc.

Ðể chuẩn bị cho hội tung còn, ở giữa đám ruộng lớn được chọn làm địa điểm lễ hội, người ta dựng một cây mai cao từ 20-30cm làm cột. Trên đỉnh cột có uốn vòng tròn đường kính 50 - 60 cm dán giấy hai bên, đề chữ Nhật- Nguyệt tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời. Tung còn đòi hỏi cả sức khỏe và sự khéo léo. Những quả còn được khâu bằng vải, bên trong có hạt thóc, hạt bông được nén chặt, ngoài có tua ngũ sắc, được các nam thanh nữ tú thi ném lên vòng tròn trên ngọn cây nêu. Ðó là hai biểu tượng đặc sắc của Dương và Âm, cái gốc của vũ trụ và vạn vật. Khi quả còn xuyên thủng hồng tâm của vòng tròn, là Âm - Dương đã giao hòa, cuộc sống sẽ sinh sôi, mùa màng sẽ bội thu.

Nếu ở lễ hội nào không có ai tung còn trúng vòng tròn thì dân bản không vui, vì theo quan niệm của họ, phải có người tung còn trúng vòng tròn làm rách giấy thì năm đó làm ăn mới thuận lợi, mưa thuận gió hòa. Trong trò chơi này, nam nữ thanh niên còn thi tung còn cho nhau.

Các hoạt động trong lễ hội Lồng tồng còn có: Rước cờ, Múa sư tử , Đi cà kheo, Múa rối, Chọi gà, Đánh đu, Múa võ, Kéo co, Đẩy gậy và Hát then, tuỳ theo tùng vùng.

Lễ hội Lồng Tồng là một Lễ, Hội dân gian giàu bản sắc và sinh động trong các dạng thức biểu hiện, tuy nhiên trước nguy cơ đồng nhất về văn hóa cần có sự phục dựng và bảo tồn kịp thời để không mất đi một lễ, hội đầy ý nghĩa trong ngày xuân và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc. 

Trong những năm gần đây đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, cùng với sự quan tâm của Đảng, Nhà Nước lễ hội Lồng tồng của vùng núi phía Bắc diễn ra càng sôi nổi, phong phú hơn, đảm bảo các yếu tố văn hoá dân gian, đã thu hút du khách cả nước đến thăm quan, dự hội ngày một đông. Trong những ngày hội Lồng tồng đầu năm mới, khắp vùng núi phía Bắc luôn tấp nập du khách gần xa về dự. Với những người được dự hội, khi trở về đều mang theo nỗi nhớ khó quên về những kỷ niệm nơi miền rừng. Hẳn ai cũng sẽ tự hẹn lòng, mùa xuân năm sau lại tìm về dự hội...






Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập