Cây mai, tiếng Nùng Dín gọi là “máy mui”. Hầu hết tộc người Nùng Dín tại
các làng bản cư trú đều trồng cây mai, bình quân mỗi hộ một khóm. Cây mai là một
trong các loại cây lâm sản vườn rừng của các dân tộc thiểu số nói chung và người
Nùng Dín nói riêng.
Cây mai được
đồng bào trồng trọt duy nhất 01 lần bằng thân cây non rồi dần tự phát triển, mỗi
năm chỉ phải phát cỏ bụi rậm 01 lần vào mùa măng mọc, không phải chăm sóc mất
nhiều thời gian. Cây mai thường được trồng tại các hốc đá vườn rừng hoặc các
triền dốc đồi nương lưng núi sau các làng bản. Sau khi trồng sống, những năm đầu
mỗi khóm chỉ mọc từ 3 đến 4 mầm măng nhỏ, rồi càng về những năm sau, măng càng
mọc nhiều và to dần tạo thành khóm mai tỏa bóng xum xuê.
Cây mai có đặc
tính thân cây thẳng, to, đường kính từ 10 – 15cm, cao từ 15 đến 17m. Rễ cây thuộc
loại rễ chùm bám giữ đất rất chặt, có tác dụng chống xói mòn chất màu của đất.
Thập kỷ đầu khi cây mai mới trồng, sống và phát triển đồng bào không bẻ măng để
ăn (hoặc bán) mà để sinh trưởng thành cây, tạo thành khóm mai to vừa tạo nên cảnh
quan “sơn thủy hữu tình” sau mỗi ngôi nhà, làng bản vừa giữ đất không cho đất bạc
màu, bảo vệ môi trường.
Khác với các
loại cây lâm sản vườn rừng nhân tạo (cây sa mu, cây mỡ, cây xoan, cây trúc, cây
hóp, …), cây mai là cây được sự dụng làm nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, sinh
hoạt đời sống với nhiều giá trị sử dụng thiết thực hơn cả.
Đó là, đồng
bào sử dụng cây mai già làm nhà cửa, chuồng trại gia súc. Cụ thể là làm đòn tay
(máy pew), nóc nhà (thửng rân), ly tô lợp ngói mái nhà (cạp chích), dát trải
sàn gác nhà (rụp rùng riếng), làm phên dậu thay thúng ván quây xung quanh nhà ở
(slanw pungw rí hốm rân); quây chuồng lợn, ốp dát chuồng lợn; làm giả mái ngói
âm dương lợp chuồng lợn, chuồng trâu, làm khung và đan phên quây chuồng gà. Khi
sử dụng làm nguyên vật liệu nhà cửa, chuồng trại đồng bào thường chặt cây vào
mùa đông, tránh chặt mùa măng mọc cây mai dễ bị mọt và đem ngâm nước cho cây
mai có mùi chua thối, tránh mối mọt cắn cây.
Cùng với làm
nhà cửa, chuồng trại gia súc, gia cầm đồng bào còn sử dụng cây mai non chẻ lạt
đan cót phơi (slanw pphân phến). Cót được đan theo kiểu long đôi vừa dẻo
vừa bền, có thể đem cuốn lại cất gọn gàng sau mỗi lần sử dụng. Ngoài cót, đồng
bào còn dùng các dóng mai làm ống bương gánh nước (băng nắm); ống bương
đựng nòng nọc và con tép xúc ở ruộng và suối (băng ty trùng, mêng
tsoongw); ống bương đựng dưa, ngồng cải (chăm pphác riu); ống bương đong ngô hạt
hoặc lạc ủ (bụcj hàng tsaow khau).
Đặc biệt, đồng
bào dùng cây mai làm cây rào trâu, ngựa phá hoại lúa ngô, bảo vệ mùa màng trên
đồng ruộng, nương rẫy. Họ dùng cả cây dài đóng cọc buộc vào (nếu là cây to, nặng
thì bổ làm đôi). Nếu rào vườn tược sau nhà thì cắt đoạn dài từ 1,2 đến 1,5m, chẻ
làm 4 hoặc 6 hay 8 mảnh đan xít dựng đứng, đồ dày từ 5 – 7 nan ngang đảm bảo chắc
và bền. Làm máng dẫn nước tưới ruộng bậc thang trên các khe thung lũng; làm
máng bắc nước sạch từ các khe mạch nước ngầm trong núi sau bản về bể chứa nước
phục vụ sinh hoạt (lin cải nắm). Khi làm máng nước, họ làm bằng 02 cách là: bổ
đôi cây mai rồi dóc mấu cho phẳng hoặc vát, dóc phẳng các mấu để máng không bị
khô cong, bị dập vỡ. Nếu không bị người và gia súc phá hoại, máng cây mai khá bền,
có thể sử dụng từ 2 đến 3 năm mới phải thay, mang lại nhiều hiệu quả lớn vừa tận
dụng tài nguyên nước trời phục vụ trồng cấy, sinh hoạt vừa giảm sức lao động
con người trong việc che chắn, tát nước và gánh nước.
Ngoài ra, người
Nùng Dín còn sử dụng cây mai làm các đạo cụ, công cụ thực hành các nghi lễ tín
ngưỡng tộc người. Đó là dùng bẹ mai khô (toôngw nả máy mui) cắt các biểu tượng
trâu, ngựa làm đạo cụ cúng giải hạn, cắt hình người treo trên cây cắm trong các
nương rẫy, ruộng đồng đe dọa súc vật phá hoại cây giống lúa, ngô. Lấy nguyên
cây mai nhỏ để cả ngọn làm cột chôn treo cờ tang (toồng chùng), treo lễ vật cây
tiền (toồng slaw); chẻ mai non đan làm khung nhà táng cho người quá cố trong
tang lễ (chả chân chích); làm đòn tay khiêng người quá cố (lăn can thặp khônw
chảo).
Khác với loại
cây lâm sản trúc, tre, vầu, nứa, măng mai có đặc điểm búp măng to, sản lượng
nhiều; một búp măng mai có sản lượng măng sử dụng gấp 3 đến 4 lần măng các loại
cây trên. Mặt khác, măng mai rất ngọt, ăn rất ngon nên đồng bào Nùng Dín thường
sử dụng măng mai làm thức ăn. Trừ 7 đến 8 năm đầu, măng mai mọc ít và nhỏ, chủ
yếu để làm giống phát triển thì sau đó hàng năm đồng bào đều tỉa các loại búp măng xấu, còi hoặc có con sâu cắn
về nấu ăn. Khi chế biến làm thức ăn, đồng bào có nhiều cách cụ thể: sau khi bóc
bẹ xong thì rửa sạch, thái nhỏ đem xào tươi hoặc luộc qua nước một lần bỏ chất
khé của măng (mănw ảy), rồi dùng xào hoặc nấu ăn. Khi xào nấu thường cho gia vị
lá chanh hoặc tía tô, mùi tàu thái nhỏ mới hợp khẩu vị.
Đặc biệt, đồng
bào Nùng Dín sử dụng măng mai làm măng chua (rang slăm) để bảo quản lâu
dài, làm gia vị ăn uống dự trữ. Để làm món măng chua, đồng bào bóc hết bẹ măng
sau đó bóc hết bẹ non để xào, nấu hoặc măng chua ngọt (rang tàu) để chế biến thức
ăn. Còn lại thịt củ và thân măng mới dùng làm măng chua ủ trong vại sành, loại
có vành ở cổ đựng nước để điều hòa nhiệt độ. Khi làm măng chua thì đem rửa sạch,
không dính mỡ rồi đem thái chỉ cho vào vại và rắc phun một ít nước sôi để nguội
cho sâm sấp. Cứ thế ủ kín từ 6 tháng đến 01 năm mới bỏ ra ăn và càng để lâu
càng tốt. Măng chua có nhiều cách ăn tiêu biểu là: dùng làm nước chua nấu canh
đậu, óc đậu; nấu canh chay rau cải, rau bí; xào ớt; ninh chân giò thui, nấu
canh thịt trâu, bò, ngựa; xào lòng lợn, trâu, bò, con tép, nòng nọc,… Khi lấy
chế biến món ăn cũng tuyệt đối kiêng không được dính mỡ.
Ngoài việc lấy
măng để làm thức ăn hay làm nguyên liệu chế biến các món ăn đặc sản, đồng bào
Nùng Dín cũng còn dùng cây mai để làm hàng hóa mua bán trao đổi (trị giá mỗi
cây hiện nay từ 100 ngàn đồng đến 120 ngàn đồng, cả công chặt và vận chuyển).
Tuy nhiên, việc mua bán này cũng rất hạn hữu, chủ yếu những người thợ mộc, thợ
xây mua để bắc giàn giáo khi hành nghề.
Có thể nói,
tuy mai là loại cây lâm sản vườn rừng không được trồng nhiều nhưng được đồng
bào Nùng Dín quan tâm duy trì trồng để tạo cảnh quan; bảo vệ môi trường và khai thác được nhiều giá trị sử
dụng thiết thực phục vụ đời sống sinh hoạt một cách hiệu quả./.
ThS. Vàng Thung Chúng