Những ngày Tết cổ truyền là thời điểm hội tụ những nét sinh hoạt văn hóa truyền thống và độc đáo của mỗi dân tộc. Với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, mỗi dân tộc lại có một phong tục đón Tết riêng, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa phong phú, đa dạng của người Việt Nam…
Đồng
bào dân tộc Mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc Mông gồm nhiều nhóm: Mông Đơ
(Mông Trắng), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông
Đen), Mông Súa (Mông Mán). Dân tộc Mông cư trú tập trung ở miền núi vùng
cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu,
Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An.
Người
Mông có một hệ lịch riêng. Theo đó, Tết của người Mông được tổ chức vào
khoảng cuối tháng 11, đầu tháng 12 âm lịch. Tuy nhiên, ngày nay đa số
các vùng người Mông đã ăn Tết Nguyên Đán như người Kinh, chỉ trừ một bộ
phận nhỏ, chẳng hạn người Mông ở Mộc Châu vẫn duy trì lễ Tết theo hệ
lịch riêng của họ.
Ngày
25, 26 tháng Chạp, người Mông bắt đầu nghỉ ngơi chuẩn bị đón Tết. Khi
đó, họ niêm phong tất cả các công cụ sản xuất lại, ví dụ như các lò rèn
phải làm lễ đóng lò, cối xay ngô tháo ra, dán một tờ giấy bản lên rồi
làm lễ.
Trước
đây người Mông không gói bánh chưng, bây giờ đã có gói, nhưng bánh
chưng không nhất thiết có trong bữa cỗ Tết của họ. Với họ, ba món không
thể thiếu là thịt, rượu và bánh ngô.
Người
Mông không đón giao thừa. Đối với họ, tiếng gà gáy đầu tiên của sáng
sớm mùng Một mới là cái mốc đánh dấu một năm mới bắt đầu. Tối hoặc nửa
đêm 30, người ta cúng ma nhà (tổ tiên) bằng một con lợn sống, một con gà
còn sống (và phải là gà trống, mà tốt nhất là gà trống tơ). Sau đó mới
mang lợn và gà ấy đi giết thịt (nhà nào giàu có thì thịt một con lợn từ
28, 29 để ăn trước). Thịt xong đem cúng một mâm thịt chín, rồi ăn cơm
uống rượu đến khi nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên.
Từ
mùng Một trở đi họ mặc quần áo mới đi chơi. Ném pao là một trong những
trò chơi ngày Tết mà người Mông rất thích; ngoài ra còn múa khèn, múa ô,
chơi cầu lông gà, hát ống, hát dân ca, đua ngựa, bắn nỏ...

Lễ hội Gầu Tào của đồng bào Mông ở Lào Cai
Lễ hội Gầu Tào của đồng bào Mông ở Lào Cai. (Ảnh: Vietnamnet) - See
more at:
http://cinet.vn/ArticleDetail.aspx?articleid=26699&sitepageid=555#sthash.s3Osucc7.dpuf
Đặc
biệt, nói đến Tết của người Mông không thể không nói đến một lễ hội gọi
là Gầu Tào. Theo tiếng Mông, Gầu Tào có nghĩa là “địa điểm chơi”. Theo
tập quán, lễ hội Gầu Tào thường do ba gia đình có quan hệ huyết thống
hoặc thông gia với nhau và có hoàn cảnh như nêu trên cùng tổ chức. Lễ
hội được tiến hành vào mùa xuân trong ba năm liền - mỗi năm người ta
trồng một cây nêu để ba gia chủ sẽ lần lượt lấy cây nêu và những vật
treo trên cây về để lấy phúc, lấy lộc. Địa điểm làm lễ Gầu Tào được gọi
là Hấu Tào (Đồi Hội), là một quả đồi thấp, đỉnh bằng phẳng tạo nên một
bãi rộng và được bao quanh bởi những ngọn đồi cao hơn, phía trước có một
không gian trũng, hẹp. Đồi Gầu Tào phải quay theo hướng Đông để cây nêu
khi dựng lên đón được ánh nắng mặt trời. Người Mông quan niệm, quả đồi
Gầu Tào tượng trưng cho phúc mệnh của gia chủ. Không gian trũng phía
trước tượng trưng cho sự đứt gãy, không may mắn; những ngọn đồi phía sau
cao hơn tượng trưng cho sự phát triển: con cái hơn cha mẹ, tài lộc ngày
càng nhiều.
Để
tổ chức lễ Gầu Tào, gia chủ phải mời chủ lễ (Trứ Tào) giúp chủ trì lễ
hội và một người phụ nữ giúp việc (Nẹ Tào), đều phải là những người có
gia cảnh yên ấm, hạnh phúc, kinh tế khá giả; cùng với hai thanh niên,
nam nữ, giúp chủ lễ là Tú Tào và Sảy Tào.
Lễ
hội tổ chức vào tháng Giêng hàng năm, nhưng việc chuẩn bị được tiến
hành từ cuối tháng Chạp, với hai nghi lễ là chặt tre và dựng nêu. Ngày
chặt tre để dựng nêu, chủ nhà bày mâm lễ để chủ lễ và những người giúp
việc tiến hành nghi thức cúng. Gia chủ mời chủ lễ uống rượu và sau hai
ly rượu, chủ lễ bắt đầu hát bài “sây giể” (xem bói) về lý do làm lễ Gầu
Tào. Sau đó, chủ lễ xòe ô, hát bài “sáy dìn sê” (đi tìm cây nêu) và dẫn
đoàn người đến chỗ cây tre đã chọn, để chặt tre. Cây tre làm nêu phải
thẳng, đều dóng, cao từ 9 - 12m, không sâu bệnh, không cụt ngọn, không
ra hoa, ngọn cây hướng về phía mặt trời mọc. Nghi lễ chặt tre diễn ra
ngay tại gốc tre, người chủ lễ làm lễ và cầm ô che, vừa hát bài “chía
dìn sê” (chặt cây nêu) vừa đi quanh gốc tre, sau mỗi vòng lại chặt một
nhát. Hết bài hát, người ta chặt tiếp để sao cho tre được đổ về phía mặt
trời mọc và có người đỡ lên vai để tre không chạm đất. Sau đó, thân tre
được tỉa nhẵn, còn ngọn tre để nguyên cành lá để tượng trưng cho “bờm
rồng” hay sự linh thiêng. Chủ lễ che ô cho cây, hát bài “cứ dìn sê” (vác
cây nêu) để mọi người vác ra bãi hội, gốc hướng phía trước, ngọn phía
sau, không chạm đất và không nghỉ giữa đường. Đến bãi hội, người ta đào
lỗ cắm cây tre, lúc này được gọi là cây nêu và không trùng với lỗ của
các năm trước. Chủ lễ buộc lên ngọn nêu hai dải vải lanh màu đen (sự tập
hợp lực lượng) và màu đỏ (mời tổ tiên về dự hội), một bầu rượu, ba bông
lúa nếp (tượng trưng cho tài lộc) và một túm cây “sưi” (họ dương xỉ,
tượng trưng cho sự sinh sôi) rồi mọi người cùng nhau dựng nêu, quay ngọn
về hướng mặt trời mọc.
Lễ
cúng bên cây nêu được diễn ra ngay buổi sáng hôm đó với lễ vật là gà,
rượu và cơm. Chủ lễ thắp hương, đốt tiền mã, rồi đi ngược chiều kim đồng
hồ quanh cây nêu, hát bài “Tịnh chay” (hẹn ngày) cúng báo thần linh
biết việc gia đình dựng nêu tổ chức lễ tạ ơn (như đã hứa), rồi mọi người
hưởng lộc ngay dưới chân cây nêu.
Khi
thấy cây nêu cao giữa bãi đồi Hầu Tào, mọi người trong vùng biết năm ấy
có hội Gầu Tào. Không khí hội hè nhộn nhịp, mọi người thông tin cho
nhau ở chợ, ở trên đường, trong xóm… về lễ Gầu Tào và tập luyện để chơi
hội Gầu Tào. Người thạo múa khèn sẽ luyện lại các bài khèn, giọng khèn,
động tác múa khèn và chỉ bảo cho con cháu cùng luyện tập. Người thông
thạo các bài võ với các binh khí cổ truyền thì luyện lại các miếng võ,
bài quyền để “khoe tài” trước thiên hạ. Thường thì các võ sư này chỉ
truyền dạy cho con trai trưởng của mình, nên các môn võ cổ truyền trong
ngày hội Gầu Tào ngày càng ít người biết và thực hiện. Ngày hội này cũng
là dịp để nam nữ chuẩn bị quần áo đẹp, vui chơi cùng chúng bạn, gặp gỡ
người yêu… để bộc bạch tình cảm qua những bài hát mà thường ngày họ
không thể thổ lộ.
Ngày
chính hội được tổ chức từ mùng 2 đến mùng 4 Tết, tuỳ theo tuổi của gia
chủ hợp với ngày nào. Chủ lễ và người giúp việc treo đồ lễ lên cây nêu,
đặt tiền mã dưới gốc và quỳ xuống khấn, vái cây nêu. Sau nghi lễ cúng
bên cây nêu, chủ lễ tuyên bố mở đám hội. Nghi thức hát mở màn lễ hội
được thực hiện bởi một người thạo hát nhưng phải có gia đình khỏe mạnh,
kinh tế khá giả. Sau đó, mọi người dự hội đều có thể vào hát, trình diễn
và thưởng thức các trò chơi, múa khèn, múa võ, múa gậy sinh tiền, hát
hội Chù Gầu Tào… và đều được chủ lễ mời rượu. Cuộc vui kéo dài đến tối
với các cuộc hát đối chủ - khách, nam - nữ. Khách phương xa có thể ngủ
lại tại nhà của gia chủ để những ngày sau tiếp tục cuộc vui.
Lễ
hội Gầu Tào kéo dài trong ba ngày. Chiều ngày thứ ba, chủ lễ tuyên bố
lễ hạ cây nêu, rồi cầm ô dẫn đoàn người đi ngược chiều kim đồng hồ xung
quanh cây, hát bài “khâu dìn sê” (hạ cây nêu). Cũng như nghi thức lúc
chặt tre, khi hạ nêu, người ta phải cho cây ngả xuống theo hướng mặt
trời mọc, thân cây không chạm đất, rồi vác cây nêu về nhà gia chủ. Gần
tới nơi, người ta cắt một đoạn gốc nêu dài khoảng 1m, tẽ hạt của ba bông
lúa nếp và bỏ tiền vào mẹt thóc. Gia chủ đóng cửa chờ sẵn, hát đối đáp
nhận cây nêu với chủ lễ, rồi mở cửa đón nhận cây nêu. Cây nêu được vác
vào nhà theo hướng gốc vào trước. Chủ lễ trao cho gia chủ dải vải lanh
và đoạn gốc của cây nêu: gốc cây dùng để “lát” giường ngủ, dải vải lanh
dùng để may quần áo cho đứa trẻ sinh được ra nhờ cầu xin trên đồi Gầu
Tào hoặc cho người khỏi bệnh nhờ khấn Gầu Tào.
Lễ hội Gầu Tào là lễ hội lớn nhất của người Mông trong năm và nó thể hiện rõ nhất những đặc trưng văn hóa Mông trong ngày Tết.